Phật học >> Bắt đầu học Phật
Kinh Vô Lượng Thọ
I. LỜI DẪN NHẬP
Pháp môn Tịnh Độ được coi là phương tiện thù thắng nhất trong tất cả phương tiện được Đức Thế Tôn nói lên để hoá độ quần chúng quay về nguồn tâm thanh tịnh của chính mình. Tịnh Độ Tông tại Trung Hoa lấy ba kinh một luận làm tông chỉ, đó là Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Quán Vô Lượng Thọ và Kinh A Di Đà, bộ luận thiết yếu nhất là “Vãng Sanh Tịnh Độ Luận” của Bồ Tát Thế Thân làm tông chỉ.
Ngoài ra, các kinh về Tịnh Độ được Đức Thế Tôn nói trong tạng cũng rất nhiều như Bi Hoa, Đại Tập Hiền Hộ, Niệm Phật Ba La Mật và trong các bộ kinh tập như “Ban Châu Tam Muội” còn rất nhiều bộ nói rải rác về pháp môn Tịnh Độ. Ngoài ra luận sớ về Tịnh Độ được chư cổ đức biên soạn rất nhiều.
Trong ba kinh Tịnh Độ, Kinh Quán Vô Lượng Thọ là bộ kinh thuật lại việc Phu nhân Vi Đề Hy mẹ vua A Xà Thế vì con giết cha giam lỏng mình, nên sanh lòng chán cảnh khổ Ta Bà thỉnh Phật nói pháp tu hành sanh về Tịnh Độ, Phật nhân đó nói 16 pháp quán chỉ rõ những điều kiện thiết yếu để được sanh về cõi An Lạc.
Kinh A Di Đà diễn tả cảnh Tây Phương Cực Lạc và chỉ rõ người muốn sanh về phát thành tựu nhứt tâm bất loạn qua hành trì tu tập trên tinh thần niệm niệm không gián đoạn là đường vào Tam Ma Địa, khi tâm thanh tịnh thì an lạc hiện tiền. Thế nhưng, phần đông quần chúng chỉ nghĩ rằng kinh này dạy chúng ta niệm Phật để vãng sanh Tịnh Độ khi mất.
Kinh Vô Lượng Thọ bày rõ nhân hạnh của đức A Di Đà từ nhân tu là Pháp Tạng Tỳ Kheo, lập hạnh nguyện tu Bồ tát đạo cho đến khi viên thành Phật quả, tịnh độ trang nghiêm đây là Pháp hội bày rõ nhân hạnh hành Bồ tát hạnh, chỉ rõ tịnh độ chơn tâm, một trong vô lượng ương hạnh tu Bồ tát đạo, Hành Bồ tát hạnh cũa Chư Phật.
Trên pháp tu thì Hội kinh này bày rõ phương tiện tu hành vào Chánh Định Niệm Phật. Là Pháp tu căn bản khi bước vào con đường Bồ tát đạo của Thiện Tài đồng tử trong Kinh Hoa Nghiêm.
II. GIẢI THÍCH ĐỀ KINH
Kinh Vô Lượng Thọ cũng còn tên gọi khác là Đại A Di Đà kinh Aparimitayuh Suttra. A Di Đà có ba hiệu Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ và Vô Lượng Công Đức.
Vô Lượng Thọ chính là Chơn Tâm hay Phật tánh sáng suốt mà ai ai cũng sẵn có, ở thánh không thêm, ở phàm không giảm dù chúng thành Phật đạo hay chìm trong A Tỳ cực trọng vẫn không hề tăng giảm thêm bớt, từ vô thỉ đến nay thường hằng như thế nên gọi là Vô Lượng Thọ. Trong kinh Pháp Hoa phẩm Như Lai Thọ Lượng trong kinh Pháp Hoa nói: Đức Thích Ca Mưu Ni cũng có thọ mạng vô lượng vô biên kiếp.
Thế nhưng, vì cõi Ta Bà ác trược, chúng sanh nghiệp trọng phước khinh, nên chúng hữu duyên vừa độ tận, Ngài liền xã huyễn thân, thị hiện tướng Niết Bàn, sách tấn cho chúng sanh tự nổ lực tiến tu. Ở Cực Lạc thanh lương nên Pháp Thân Di Đà thường trụ hiện báu thân độ sanh chẳng dứt, nếu chúng ta biết quay về nguồn thì bản tâm thanh tịnh hay Pháp Thân Thanh Tịnh hiện bày.
Vô Lượng Quang chính là cái biết trùm khắp tất cả pháp giới trong thanh tịnh vắng lặng. Chỗ này có cái biết trùm khắp đó là Vô Lượng Quang. Cũng gọi là Phổ Quang Minh Trí, diệu trí này trùm khắp mười phương thế giới như kệ nói: “Xưa Phật tu hành trí phổ môn, trí tánh rộng lớn như hư không. Do đây được thành trí vô ngại, phóng quang chiếu khắp mười phương cõi”. Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Công đức thành đầy đủ, oai quang chói mười phương, sáng hơn vầng nhật nguyệt, thiên quang bị khuất lấp”. Cả hai danh hiệu này đều đồng là Pháp Thân nhưng Vô Lượng Thọ là thể, tự cổ thường hằng, Vô Lượng Quang là diệu dụng, có tu mới hiện bày Báu thân, chỉ có được khi viên mãn Pháp Thân Phật mới thành tựu được như thế. Đứng trên diệu dụng quang minh, Đức Vô Lượng Thọ có đến mười hai danh hiệu như Vô Lượng Quang, Vô Biên Quang… Siêu Nhật Nguyệt Quang. Đây là chỉ cho diệu dụng của Hoá Thân Đức Vô Lượng Thọ.
Vô Lượng Công Đức là khi ứng dụng cái biết vào đời chính xác thành công, hình thành diệu đức giáo hoá người không cùng tận. Báu thân có vô lượng đức tướng hiển hiện giáo hóa chư Đại Bồ Tát diệu sắc trang nghiêm mà hiện bày. Đây là Quả Đức thanh tịnh Báu thân do tu hành mà có.
III. GIỚI THIỆU HỘI KINH
Hội Vô Lượng Thọ mở đầu với sáu món thành tựu, nơi nói pháp là Thành Vương Xá, Núi Linh Thứu với ý nghĩa an trụ trong chơn tâm thanh tịnh đầy đủ công đức nói pháp nhiệm mầu. Vương Xá là thành của Vua dụ cho tâm là Vua sanh ra muôn công đức lành, đầy đủ tất cả thiện pháp. Núi Linh Thứu là nơi hiền thánh thường tụ hội hay khi Đức Phật nói pháp, hiền thánh vân tập nghe diệu pháp tu hành đều y chơn tâm này tu hành chứng thành Phật đạo.
Chúng Thanh Văn gồm một vạn hai ngàn người, chỉ người nghe pháp này căn trần phải thanh tịnh, chúng Bồ Tát có vô lượng vô biên là khi quay về chơn trí Bát nhã thì vô lượng niệm khởi trở thành công đức thanh tịnh. Đồng thời chỉ rõ Thanh Văn và Bồ Tát đều tu được pháp môn này.
Mở đầu pháp hội, Đức Thế Tôn hiện nét mặt hoan hỷ hân hoan vui mừng, xưa nay chưa từng có. Ngài A Nan nhân đó thưa hỏi điều này cho thấy Cực Lạc hay An Lạc chính là pháp giới của tâm hoan hỷ an vui trong chánh pháp.
Đức Phật nói rõ công đức thù thắng vi diệu của Chư Phật, hay tất cả sự nhiệm mầu vi diệu của chơn tâm thanh tịnh cho Ngài A nan là người tiêu biểu cho hàng trí thức học rộng nhớ nhiều, rõ suốt vô biên pháp tướng chỉ thiếu sự thực hành. Trước khi nói pháp, Phật phải dạy A Nan công đức vô biên của chơn tâm khi ứng dụng ra thì trùm khắp tất cả pháp giới, để mọi người hiểu rõ không thể dùng trí thức văn tự ngữ ngôn khi nghe kinh Đại Thừa, nghe bằng văn tự ngữ ngôn thì không hiểu thấu được diệu nghĩa. Người nghe pháp muốn hiểu rõ diệu nghĩa tu hành nếu dùng tri thức nghiên cứu tìm tòi không bao giờ rõ được huyền nghĩa của kinh.
Đức Phật cho biết thời quá khứ có 49 Đức Như Lai ra đời vị đầu tiên là Nhiên Đăng và vị cuối cùng là Đức Thế Tự Tại Vương Như Lai. Danh hiệu chư Phật đều chỉ bày rõ mật nghĩa của bản tâm. Nhiên Đăng tức thắp sáng đèn trí huệ tự tâm, hay rõ biết Phật tánh của mình, từ đó ứng dụng ra làm lợi lạc cho vô biên sanh chúng. Mở đầu danh hiệu chư Phật bằng Nhiên Đăng không ngoài ngụ ý bảo mỗi người phải thắp sáng bản tâm của mình như kệ nói: “Bồ Tát xưa nay chẳng lìa chơn, nhà mình quên mất chẳng thân quen. Nếu hay ngồi tịnh soi tâm lại, chủ xưa liền hiện rõ ràng ngay”.
Vô lượng kiếp đã trôi qua, chúng ta là những gã cùng tử lang thang trong sáu nẻo luân hồi không biết lối về nhà bảo sở. Chỉ có hồi quang phản chiếu quay nhãn tâm về chiếu sáng linh đài, nhận ra bản lai thanh tịnh của chính mình, y đó ứng dụng thì thành Phật không sai.
Vì thế, Đức Nhiên Đăng là vị Phật mở đầu cho tất cả các vị Phật hiện tiền. Cuối cùng là Đức Thế Tự Tại Vương Như Lai giáo hóa ngài Pháp Tạng. Thế Tự Tại Vương là vị Phật như ông vua tự tại trong trần gian không chướng ngại.
Chúng sanh bị tiền tài, sắc đẹp nam nữ, ái tình, danh vọng thực, ăn ngon mặc đẹp, uống… ngủ nghỉ, thanh hương vị xúc pháp, trói chặt không thể thoát ly, mặc tình cho vọng nghiệp cuốn trôi không biết về đâu. Ngược lại, Thế Tự Tại Vương là người ở trong ngũ dục mà không nhiễm dục, tu hành thấu triệt tất cả pháp mà không kẹt trong pháp, như vị vua mặc tình tiêu dao vượt ngoài vòng luân chuyển của vạn pháp trên tinh thần: “Khi mê người đuổi theo pháp, lúc ngộ pháp kế bên ta” (Bồ đề Đạt ma). Điều này gợi lại cho chúng ta thấy tinh thần dũng mãnh lìa ngũ dục cha già ngai vàng sang cả vợ đẹp con xinh của Thái Tử Sĩ Đạt Ta một lòng tầm đạo, nếu không phải là Thế Tự Tại Vương thì làm sao vượt thoát trần ai cứu hữu tình.
Trong cảnh giàu sang đó, có vị quốc vương vì ngộ được chỗ này, lìa bỏ vương vị, phát tâm Vô thượng Bồ Đề xuất gia làm Tỳ Kheo hiệu là Pháp Tạng. Pháp Tạng tức tạng giáo pháp thậm thâm hay tâm thanh tịnh chứa đầy muôn pháp, hàm tàng vô biên diệu dụng như Luận Khởi Tín nói “Vô biên Đức Tạng Tăng, cần cầu chánh pháp diệu. Và thân thể tướng này, biển pháp tánh chơn như”. Bồ Tát Pháp Tạng ngộ suốt nguồn tâm, một lòng xuất gia cầu Phật đạo, tinh tấn tu hành.
IV. PHÁT ĐẠI THỆ NGUYỆN
Dù Ngài đã rõ suốt bản tâm nhưng vẫn cầu Phật Thế Tự Tại Vương rộng tuyên kinh pháp cho. Ngài nguyện: “Tôi sẽ tu hành nhiếp lấy Phật quốc, thanh tịnh vô lượng trang nghiêm, khiến tôi mau thành bậc chánh giác, nhổ hết gốc rễ sanh tử khổ lụy”. Mặc dù biết rõ Phật độ cũng chẳng thật, như huyễn hoá, như kinh Kim Cang nói: “Trang nghiêm Phật Độ ấy tức phi (chẳng phải có, chẳng phải không) trang nghiêm thị danh trang nghiêm” nhưng vẫn phát nguyện trang nghiêm. Khác hẳn bậc nhị thừa an trú trong Không, Vô Tướng, Vô Nguyện không hành Bồ Tát đạo.
Ở đây, Pháp Tạng là Như Lai Tạng tâm đã thanh tịnh chứa đầy muôn pháp, nhưng diệu dụng chưa trùm khắp chỉ mới bất động như như. Ngay nơi bản thể thanh tịnh này, Ngài phát đại nguyện trang nghiêm Phật độ hay trang nghiêm tâm trên tinh thần “Nguyện độ chúng sanh là hạnh Phật” Bồ Tát dù rõ tất cả pháp là huyễn, chúng sanh như huyễn, Bồ Tát và Chư Phật như huyễn, nhưng phải hành pháp huyễn, tu hạnh huyễn, chứng quả huyễn mới viên thành Phật đạo. Muốn thế, Bồ Tát phải hành Bồ Tát đạo không mệt mỏi, nhiếp thọ vô biên Phật độ tu hành trên tinh thần làm rồi bỏ làm rồi đi nhưng cứ làm mãi. Trên tinh thần pháp môn vô lượng thệ nguyện học, Ngài Pháp Tạng cầu Đức Thế Tự Tại Vương Như Lai chỉ dạy công hạnh Phật độ.
Thế Tự Tại Vương Như Lai bảo: Công hạnh trang nghiêm Phật độ ông tự biết lấy! Nhưng Pháp Tạng Tỳ Kheo lại thưa: “Bạch Thế Tôn! Cảnh ấy sâu rộng chẳng phải cảnh giới tôi biết, ngưỡng mong Đức Thế Tôn chỉ dạy công hạnh Tịnh Độ của chư Phật Như Lai. Tôi được nghe rồi sẽ y theo tu hành để hoàn thành sở nguyện”.
Lúc ấy! Đức Phật Thế Tự Tại Vương Như Lai biết Tỳ Kheo này cao minh, chí nguyện sâu rộng nên liền dạy rằng:
Ví như biển cả kia, có một người lấy đâu múc nước, trải qua kiếp số còn có thể cạn đến đáy được châu báu vi diệu. Người chí tâm tinh tấn cầu đạo chẳng thôi, tất sẽ kết quả, có nguyện gì mà chẳng được thành.
Rồi Ngài rộng nói 210 ức quốc độ chư Phật, tất cả cõi nước trang nghiêm đều ứng theo tâm nguyện của Tỳ Kheo Pháp Tạng mà hiện ra cho thấy rõ ràng. Trong năm kiếp, Ngài dùng tâm vắng lặng tinh tấn quán chiếu, nhiếp lấy công hạnh trang nghiêm thanh tịnh của nước Phật, tất cả thế gian không ai bằng.
Tất cả Bồ Tát khi phát tâm lập nguyện thường tự mình quán xét và lập nguyện, như trong Pháp hội Bất Động Như Lai, Bồ Tát Bất động thì tự lập hạnh nguyện theo tinh thần Bát Nhã. Pháp Tạng thì nương oai thần Phật quán xét tất cả cõi Phật trong năm kiếp rồi mới lập hạnh.
Sự khác biệt này nếu nhìn trên tinh thần trí và hạnh nguyện sai thù thì thấy rõ: Bất Động là Chơn Tâm, hay Căn Bản Trí nên tự lập hành nguyện khế hội Phật tánh không sai biệt.
Pháp Tạng là Như lai tạng tâm thanh tịnh, còn là thức tịnh nên phải nương Phật lực hay diệu dụng của Chơn tâm mà quán sát tất cả Phật cảnh giới và lập nguyện.
Đứng trên tướng thì lòng cầu đạo chí thành của Ngài Pháp Tạng biểu thị sự khiêm hạ, cung kính chí thành cầu đạo không ỷ cậy vào cái biết của chính mình, nhờ đó, thấy tất cả cõi Phật thanh tịnh lập ra cõi Tịnh Độ trang nghiêm. Ngài Pháp Tạng quán sát trong năm kiếp hay cõi nước chư Phật không lìa ngủ uẩn thân này như kệ nói: “Cảnh giới Như Lai nếu muốn tầm, nên tịnh ý mình như hư không. Xa lìa vọng tưởng và chấp trước, hướng tâm đến chỗ chẳng ngại ngăn” nhiếp thân thanh tịnh thì mới hành Bồ Tát đạo được.
Hàng Bồ Tát muốn trang nghiêm Phật độ, trước phải trang nghiêm thân tâm. Sau đó y theo nguyện lực lấy tất cả chúng sanh làm chánh nhân trang nghiêm Tịnh Độ như Kinh Duy Ma nói: “Tất cả chúng sanh đều là cõi Phật của Bồ Tát… Bồ Tát lãnh lấy cõi Phật thanh tịnh đều vì muốn lợi ích chúng sanh”.
Vì cảnh giới Phật muốn thanh tịnh trang nghiêm phải hết sức tinh chuyên hành đạo nên Đức Phật Thế Tự Tại Vương Như Lai khuyên Ngài Pháp Tạng: “Người chí tâm tinh tấn cầu đạo chẳng thôi, tất sẽ kết quả, có nguyện gì mà chẳng được thành”.
Ở đây, Bồ Tát Pháp Tạng, tâm đã hoàn toàn thanh tịnh, y Phật thần lực quán xét 210 ức cõi nước Phật hình thành nên lý tưởng cõi Tịnh Độ An Lạc hay Cực Lạc theo bổn nguyện của mình phát ra 48 lời nguyện.
Trước khi phát nguyện, Ngài đảnh lễ Đức Thế Tự Tại Vương Như Lai, nhiễu quanh ba vòng, chắp tay bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Tôi đã nhiếp lấy công hạnh trang nghiêm thanh tịnh nước Phật. Đức Thế Tự Tại Vương Như Lai nói: Nay Ông nên trình bày, phải biết là đúng lúc để phát khởi và làm vui đẹp tất cả đại chúng. Bồ Tát tu hành pháp ấy thì sẽ đầy đủ vô lượng đại nguyện”.
Trước Đức Thế Tôn và đại chúng ngài Pháp Tạng phát 48 lời nguyện, hành Bồ Tát đạo kiến tạo Cõi An Lạc khi nguyện vừa phát xong, hư không có tiếng chắc thành Như Lai. Sau khi phát nguyện ngài siêng năng hành Bồ Tát hạnh trải qua vô lượng ức kiếp.
V. VIÊN THÀNH PHẬT ĐẠO
Đức Thế tôn cho Ngài A Nan biết Ngài Pháp Tạng Bồ Tát đã thành Phật ở thế giới An Lạc Phương Tây cách đây mười muôn ức cõi hiệu là Vô Lượng Thọ. Ngài thành Phật đến nay đã mười kiếp.
Phương Tây là tiêu biểu cho lòng từ bi vô hạn, do tâm đại từ bi và nguyện lực mà hình thành thế giới An Dưỡng hay An Lạc. Người nếu trở về sống được chơn tâm thanh tịnh hay Pháp Thân Thường Trụ thì Vô Lượng Thọ hiện tiền. Thành Phật đã mười kiếp chỉ cho tâm giác ngộ vượt ngoài không gian và thời gian, siêu việt mười pháp giới.
Núi non cao thấp, gò nổng hầm hố biển sâu lớn nhỏ sông ngòi hang giếng là do nghiệp lực sâu rộng của chúng sanh mà hình thành. Cõi Phật Vô Lượng Thọ không có các núi non là do tâm bình đẳng thanh tịnh công đức viên mãn tạo thành như kinh Lăng Nghiêm nói “Nếu bình đất tâm thì tất cả đại địa thảy đều bình”. Chỗ này, trong phẩm Hoa Tạng thế giới, kinh Hoa nghiêm nói: “Đại địa bằng phẳng rất thanh tịnh, an trụ kiên cố không hư hoại, khắp chốn ma ni dùng trang nghiêm, trong đó có báu cùng xen lẫn…” Đây là thế giới ảnh hiện của tâm rồi từ tâm hiện ra y báo theo thân. Ở đây, do nguyện lực và diệu đức của Phật Vô Lượng Thọ viên mãn nên cõi nước thanh tịnh, ai muốn thấy thì được thấy, không có ba ác đạo, không có bốn mùa thời tiết hằng điều hòa đây là y báo thù diệu do nguyện lực hải của chư Phật hình thành, khác hẳn cõi Ta Bà do nghiệp lực của chúng sanh hình thành.
Đức Phật dạy: “Này A Nan! Hành nghiệp và quả báo chẳng thể nghĩ bàn, thế giới của chư Phật chẳng thể nghĩ bàn. Sức lành của chúng sanh ấy ở đất hành nghiệp nên được như thế”.
Quang minh chỉ hào quang hay ánh sáng nơi thân phát ra, hiểu theo nghĩa khác là công đức hay trí dụng. Vô lượng trí huệ quang thù thắng hơn tất cả chư Phật, vì đây là pháp thân chơn thể diệu dụng ra nên siêu việt ánh sáng tất cả chư Phật Báu Hoá Thân. Chỗ này, Phật Phật đạo đồng, pháp thân chơn thể ai cũng như thế. Mười hai danh hiệu Phật là tán thán uy thần không thể nghĩ bàn của diệu đức hay trí dụng. Chúng sanh nào thấy được ánh sáng Phật Vô Lượng Thọ thì tiêu trừ tất cả ba độc phiền não. Bởi vì, Phật cùng chúng sanh, vốn không khác tướng, chỉ nhân mê ngộ mà có khác đường. Thấy được Phật tức tâm thanh tịnh, rõ được nguồn tâm thì thân ý nhu nhuyến an hòa tịnh lạc hơn tất cả vui thiền định gấp nhiều lần.
Chơn tâm Phật tánh dù ở trong ba ác đạo trải qua bao lâu cũng không hề hao tổn lu mờ, chúng sanh trong ba ác đạo khổ do không nhận được bản tâm đối diện nghịch cảnh sanh phiền não khổ vô cùng. Khi đã rõ nguồn tâm thì không bị nó chi phối nữa dù thân thọ khổ mà tâm vẫn an vui, đó là khi mạng chung không còn tâm phân biệt, sanh vào An Lạc.
Tất cả Chư Phật, Bồ Tát, Thanh văn đều ngợi khen quang minh Phật Vô Lượng Thọ vì đây là chỗ thù thắng nhất mà tất cả hiền thánh đồng khen ngợi và quy hướng về. Ngộ bản tâm và ứng dụng diệu tâm, trí quang trùm khắp tất cả là hạnh mà tất cả Chư Phật ba đời hằng thực hiện và xưng tán như phẩm Quang Minh Giác kinh Hoa nghiêm nói: “Hoặc thấy Sư tử hống, Oai quang rất thù đặc, siêu tất cả thế gian…”. Người tâm thanh tịnh thì mới thấy quang minh rộng lớn của Pháp Thân Phật, ngợi khen công đức của chơn tâm vô cùng tận thì được quả phước khi thành Phật tất cả chúng sanh và Chư Phật đều ngợi khen như Đức Di Đà hiện thế.
VI. TƯỚNG GIÁO HOÁ CỦA CỎI NƯỚC AN LẠC
a/- Thánh Chúng Vô Lượng
Tất cả mọi người đều sẵn có pháp thân thanh tịnh như chư Phật, nhưng vì không biết không hay nên bị sanh tử chi phối, nhưng khi trở về được trạng thái an tịnh hay ở nước An Lạc, thì thọ mạng cũng vô lượng hay pháp thân hiển lộ từng phần. Chúng thiên nhơn hay những người chưa có Bồ đề tâm rộng lớn thì nương nơi thần lực của Phật (diệu tâm) và thệ nguyện của Đức Vô Lượng Thọ mà có thọ mạng vô lượng.
Đức Phật cho biết thánh chúng Thanh văn Bồ Tát không thể tính kể như biển cả. Chỗ này ngụ ý cho chúng ta thấy tất cả hiền thánh Bồ Tát Chư Phật đều ở nước An Lạc hay thanh tịnh tâm an vui hỷ lạc của thiền định, quy hướng về pháp thân thanh tịnh hay tự tánh Di Đà của chính mình.
b/- Đạo tràng bửu thọ
Này A Nan! Nếu hàng thiên nhơn ở nước An Lạc thấy cây đạo tràng ấy thì được ba pháp nhẫn:
- - Một là Âm Hưởng Nhẫn. Âm hưởng nhẫn là nhân âm thanh thanh tịnh vang vào tai mà được sức nhẫn nhục kiên cố tự tại.
- - Hai là Nhu Thuận Nhẫn. Nhu thuận nhẫn là tâm nhu hoà an nhẫn mềm mại như nước chảy không chướng ngại.
- - Ba là Vô Sanh Pháp Nhẫn. Rõ được thật tướng tánh không các pháp tâm bất động trước mọi hoàn cảnh.
Đạo Tràng Bảo Thọ tức chỗ Phật ngồi thành đạo như Đức Thích Ca ngồi dưới cội Bồ đề thành chánh giác nơi đó về sau được gọi là Bồ đề đạo tràng. Đạo tràng bảo thọ của Phật Vô Lượng Thọ thuộc Thường Tịch Quang Tịnh Độ nên công đức thù thắng không gì sánh bằng được. Nếu người có pháp nhãn thanh tịnh ngộ được chơn tâm, thấu suốt thật tướng tánh không hay chứng Tánh Định trở lên mới thấy được Bồ đề Đạo thọ. Bởi vì Bồ đề nào phải cây, do thần lực công đức trí giác ngộ mà hiện uy lực tự tại thù thắng như kệ nói: “Bồ đề thọ vương tự tại lực, thường phóng quang minh rất thanh tịnh… đạo tràng nghiêm tịnh không cấu nhiễm”. (Kinh Hoa Nghiêm)
c/- Âm Nhạc Thắng Diệu
Đức Thế Tôn cho biết Đế vương trong đời có trăm ngàn âm nhạc nhưng phước báu sai khác từ Tiểu vương đến Chuyển Luân Vương, vua sáu cõi trời dục cho đến Đại Tự Tại Thiên, âm nhạc thọ dụng tuần tự hơn kém nhau đến ngàn ức muôn lần. Thế nhưng, muôn thứ âm nhạc trên trời Đại Tự Tại không bằng một thứ âm thanh nơi những cây bảy báu ở cõi nước An Lạc của đức Vô Lượng Thọ Phật, âm thanh này còn hơn ngàn ức lần. Cõi nước An Lạc cũng có muôn thứ âm nhạc tự nhiên, tất cả đều diễn nói diệu pháp trong trẻo rõ ràng đệ nhứt trong những âm thanh ở thế giới mười phương.
Người tu bước đầu thì tránh nghe âm nhạc vì sợ nghe sanh phiền não tham dục đắm nhiễm quên mất sự tu hành. Bồ Tát thì ngay nơi cảnh động đó tu hành không đắm nhiễm thành tựu Nhĩ căn viên thông, ngộ bản lai tự tánh vì rõ biết hai tướng động tịnh rốt ráo không sanh diệt. Ở cõi An Lạc thì âm thanh lại là phương tiện thù thắng để hoá đạo của đức Vô Lượng Thọ, thường hằng thức tịnh huân tập chuyển hoá nhắc nhở người tu an trụ trong chánh pháp. Do thần lực Phật, cho nên âm thanh trổi lên thù thắng hơn tất cả âm thanh của ba cõi. Âm thanh của cõi An Lạc do công đức diệu lực và hạnh nguyện của đức Vô Lượng Thọ nên thù thắng đệ nhất trong tất cả âm thanh thế giới mười phương.
Như vậy, kinh Vô Lượng Thọ cho chúng ta thấy một trong nhưng phương tiện thù thắng bậc nhất là dùng âm thanh giáo hoá chúng sanh, trong thời đại văn minh vật chất hiện tại với máy móc phương tiện thiện xảo đầy đủ, người tu hành hoằng pháp nếu có phương tiện phải làm sao áp dụng việc dùng thanh giáo truyền bá rộng rãi cho nhân sanh để báo ân chư Phật.
d/- Cung điện lâu đài
Do nhân tu thất thánh tài: Giới, Tín, Đa Văn, Tàm Quý, Tinh Tấn, Huệ, Xã tối thắng và đại nguyện trang nghiêm Tịnh Độ nên khi viên thành Phật đạo, cõi nước trang nghiêm thuần bằng bảy báu thù diệu tự nhiên hoá thành lại còn có chơn châu, tất cả đều từ thanh tịnh tâm ảnh hiện. Bởi vì, tâm sanh muôn pháp, khi chơn tâm hiện diệu đức thì cảnh giới trang nghiêm hiện. Thế nhưng, đây là điều mà tất cả người tu Tịnh Độ nên thẩm xét, cảnh Phật trang nghiêm thanh tịnh, nếu tâm mình không tịnh khế hợp Phật tâm và quốc độ làm sao được vãng sanh an trụ nơi nước thanh tịnh? Nếu tâm còn nhiễm ô làm sao ở An Lạc Quốc được? Nhân quả không tương ưng mà cầu sanh về là điều không thể có.
e/- Ao báu trang nghiêm
Xưng tán Tịnh Độ kinh nói: “Vì sao gọi là nước tám công đức: một là trong sạch, hai là mát mẻ, ba là ngon ngọt, bốn là êm ái, năm là thấm nhuần, sáu là an hòa, bảy là uống vào trừ đói khát và vô lượng lỗi lầm, tám là uống vào hay nuôi lớn các căn và bốn đại tăng ích”.
Ngày nay, với nền khoa học hiện đại, việc tắm rửa như ý không còn là điều lạ lùng gì nữa mà nó là một hiện thực trong cuộc sống văn minh. Thế nhưng, hình như để phục vụ tự nhiên cho tất cả quần chúng một cách bình đẳng vẫn là điều trong mơ mộng xa vời. Tại thế giới này chỉ có người giàu có đầy đủ của cải vật chất mới có các tiện nghi trên, bình dân không thể có được. Nhưng so với nước An Lạc kia vẫn kém xa chỉ như hạt cát trong bãi sa mạc mênh mông. Ở thế giới An Lạc thì nó là phương tiện công cộng cho tất cả mọi người cùng thọ dụng như ý, vượt xa cỏi nhiễm ô này.
Người ngộ được tự tánh thanh tịnh thấu được nguồn chơn thì gió thổi thông reo, sóng vỗ nước chảy đều là pháp âm vi diệu, tuỳ theo ý người nghe thích mà vang diệu pháp xứng ý. Ao sâu báu ẩn đáy ao vẫn hiện bày chói ánh sáng thấu lên mặt nước là chỉ cho tâm định lắng sâu không phiền não trần, cấu bùn nhơ mà chỉ có diệu trí hay trí quang soi suốt ba ngàn thế giới đều thấy biết rõ ràng không chướng ngại. Như vậy, các báu trang nghiêm cõi Tịnh Độ vừa là y báu của thanh tịnh tâm, vừa là biểu hiện cho diệu pháp tự tâm sanh, nhắc người hưởng phước báu nhất tâm tu hành Phật đạo.
VII. SO SÁNH NHÂN DÂN VÀ QUỐC ĐỘ
Đức Thế Tôn đưa ra hình ảnh người ăn mày và vua chúa sang trọng để so sánh với người ở cõi Cực Lạc. Ngài cho biết đế vương tuy tôn quý xinh đẹp nhưng so với Chuyển Luân thánh vương chẳng khác ăn mày và vua, Luân vương so với Đế Thích lại không thể sánh kịp, đem thân Đế Thích so với Tha Hoá Tự tại thiên vương ở cõi trời thứ sáu lại thua kém vạn lần chẳng khác ăn mày và vua. Thế nhưng, đem thân đệ lục thiên vương so với người cõi An Lạc lại thua kém rất xa cách ngàn vạn ức lần chẳng thể tính kể.
Thường Tịch Quang là cõi của pháp thân Chư Phật.
Thật báo trang nghiêm là cõi của báu thân Phật và Bồ Tát chúng an trụ.
Phương tiện thánh cư là cảnh giới Niết Bàn của thánh nhị thừa.
Phàm Thánh đồng cư là cõi do nguyện lực của Phật hiện ra để giáo hoá chúng mê đồ. Cảnh Cực Lạc thông cả bốn cõi nhưng người sanh về đó khi hoa nở liền thấy Phật chứng vô sanh.
Như vậy, chúng trời người thật ra đều là hiền thánh vô lậu chẳng phải thường nhơn, lại do nguyện lực và diệu đức của Di Đà nên sắc thân oai lực thọ dụng tối thắng hơn cả vua trời Tha Hóa Tự Tại. Chúng Hiền Thánh ở cõi Ta Bà uế trược này vì dư nghiệp hay phước báu kém cỏi nên thọ dụng thô xấu như chúng sanh hiện thọ.
Lại nữa, nếu hiểu trên lý thì phước báu công đức của hiền thánh cõi An Lạc là từ Pháp, Báu thân Phật ảnh hiện hay từ Chơn Tâm và Diệu Tâm hiện bày nên thù thắng hơn chúng sanh cõi dục gấp vạn ức lần là điều hiển nhiên, không thể lấy gì so sánh được. Cõi Tha Hoá Tự Tại nhân nơi phước báu hữu lậu thành tựu mà sắc thân thọ dụng thù thắng nhất trong cõi dục. Thế nhưng, làm sao sánh được với sự thọ dụng thù thắng ở An Lạc do công đức nguyện lực của Phật Vô Lượng Thọ mà hiện bày, phước báu không thể so bì với công đức được vì chơn vọng sai thù. Một bên còn có nghiệp báo đi theo nằm trong hữu hạn. Một bên là tạng công đức không cùng tận trên vô tướng hữu tướng. Đức Phật nói lên điều này để tất cả người con Phật thấy rõ sự sai biệt vô vàn tiến tu về an lạc chơn tâm của chính mình, không chạy theo danh tướng phù vân của cõi hồng trần hư ảo này. Quy hướng về An Lạc là điều mà tất cả Chư Phật hằng khen ngợi.
Chúng sanh trong cõi Ta Bà thường bị gió bát phong (Lợi, Suy, Hủy, Dự, Xưng Cơ, Khổ, Lạc) chi phối. Lại do cộng nghiệp chung cho nên tuy có gió mát thanh lương nhưng đôi khi lại đem tới sự bất an cho sanh chúng như gió dữ lồng theo làm người yếu trúng gió dữ, lắm khi đau nhức toàn thân, cấm khẩu méo mồm v.v… đủ thứ độc hại. Tìm được nơi an lành có thanh khí tốt là điều khó tại cõi này. Ở Cực Lạc, nơi nào cũng thường có gió công đức thổi thân an tâm định như Tỳ Kheo nhập Diệt Tận Định, hay người vào định điều hoà được tứ đại nên an ổn khoái lạc khinh an.
Hoa báu trang nghiêm chân đi lún xuống bốn tấc là tiêu biểu cho tất cả người cõi An Lạc tuy mang thân người nhưng đã siêu trên bốn loại. Hoa lại tiêu biểu cho tâm thanh tịnh hay lòng hoan hỷ, mười hai thời suốt hằng như thế. Hoa tự diệu tâm sanh nên cảm ứng theo tâm mà ảnh hiện. Vì pháp từ tâm sanh cũng theo tâm diệt, cho nên, hoa dùng đã xong liền theo đất tâm mà ẩn mất không cần dọn dẹp. Đây là do sức công đức diệu dụng của tâm hiện ra.
Theo Thái Hư Đại Sư, Đại Thừa nói Bậc Thập Thánh là chánh định tụ, Tam hiền là bất định tụ. Phàm phu định là tà định tụ, trong kinh này nói Người sanh về nước kia đều trụ ở chánh định tụ. Như thế, bất luận người nào được sanh về cõi nước kia đều trụ chánh định tụ của Thập thánh.
Theo Luận Câu Xá quyển mười: “Chánh định tụ là thiền định của bậc thánh giả đã thấy đạo, không còn lui sụt an trụ trong chơn tâm vắng lặng”.
Ở cõi Tây phương An Lạc không có tà định tụ (có định nhưng không rõ được tâm mình) và bất định tụ (có định rõ tâm nhưng định và trí đều chưa kiên cố còn bị vọng thức xen lẫn hoặc thành tựu thiền định nhưng chưa phải là chơn chánh tam ma địa). Điều này khẳng định cho chúng ta người sanh về tịnh độ là bậc thành tựu được chánh định, ngộ được bản tâm, như lời Chư Tổ dạy: “Duy tâm Tịnh Độ khẳng thừa đương, bổn tánh Di Đà duy tự giác; Tịnh Độ do tâm phải vận hành, bổn tánh Di Đà do tự giác”. Như vậy, Tịnh Độ nào lìa tâm chúng sanh mà hiện có.
Người tu Tịnh Độ lấy niệm chuyên nhất tinh thần làm phương tiện vào Niệm Phật Tam Muội như Bồ Tát Đại Thế Chí đây là phương tiện hình thành Pháp Định của người tu tịnh độ nếu ngộ được tự tánh Di Đà phát tâm Bồ Đề thì vào Tánh Định.
Trong Pháp Bảo Đàn Kinh Lục tổ nói: Thế Tôn ở nước Xá Vệ tinh xá Kỳ Hoàn nói kinh Di Đà rõ ràng. Nếu luận về tướng mà nói cách cõi này mười muôn tám ngàn dặm, ngụ ý chỉ dứt mười ác (thân không sát, đạo, dâm. Miệng không nói dối, nói lời thêu dệt, nói lưỡi đôi chiều, nói lời hung ác. Ý không sân nhuế si mê và tà kiến). Tám tà (trái tám chánh đạo: tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà hạnh, tinh tấn tà, tà niệm và tà định) chỉ trong tự thân cho người trí tu hành, gần kề Phật độ. Nói cách xa là vì người mê khuyến tu, “người có hai hạng trí và mê nhưng pháp chỉ có một” như vậy, ngài Huệ Năng chỉ rõ Tịnh Độ chỉ do tâm, tâm thanh tịnh không còn tà ác thì Tịnh Độ mới hiện.
VIII. ĐIỀU KIỆN VÃNG SANH
Như vậy, người muốn sanh về Tịnh Độ tâm phải tịnh tâm mình. Nếu y theo chơn tâm mà nhìn thì An Lạc không lìa chơn tâm hiện. Vua Trần Thái Tông trong bài bàn về niệm Phật nói: “Niệm Phật để tắt ba nghiệp, bởi khi niệm Phật thân chính ngồi ngay chẳng làm hạnh tà, là tắt nghiệp thân. Miệng niệm danh hiệu Phật, là tắt nghiệp khẩu. Ý nghĩ tinh tiến, chẳng khởi niệm tà là tắt nghiệp ý. Vãng sanh không có gì khác hơn là dứt lặng niệm phàm phu, tinh thuần trong chánh niệm, trở về vô niệm mà thường niệm.
Y theo diệu tâm và bổn nguyện chư Phật mà nói thì An Lạc quốc rõ ràng là có. Vì sao chơn tâm vô tướng rốt ráo không một vật, chỗ này không có Phật và chúng sanh, rỗng rang xưa nay không một vật thì làm gì có Cực Lạc với Ta Bà. Thế nhưng, ta bà huyễn mộng hiện còn đây là cảnh vọng dẫy đầy ngũ trược, do nghiệp lực uế tâm sâu nặng của chúng sanh, thì An Lạc là tịnh cảnh do nguyện lực Đức Vô Lượng Thọ lẽ nào không có. Trên lý tánh cả hai hằng như mộng, nhưng tướng dụng thì hiện bày không sót một mải trần. Vì vọng tâm thì sanh uế độ, chơn tâm thanh tịnh và nguyện lực công đức tròn đủ thì Tịnh Độ hiện tiền. Trong chơn tâm vắng lặng thanh tịnh hiện bày vô biên pháp giới, đây là cảnh giới của diệu tâm hay Sai Biệt Trí.
Kinh Hoa Nghiêm khẳng định:
“Tất cả các quốc độ đều tuỳ nghiệp lực sanh, nhưng chúng sanh nhiễm ô, nghiệp phiền não đáng sợ, tâm họ khiến cõi nước, thanh tịnh thành nhiễm ô. Nếu có Phật ra đời, cõi nước đều tốt đẹp, tuỳ theo tâm thanh tịnh, đầy đủ sự trang nghiêm”. Chư Phật vì bổn thệ nguyện lực muốn làm an lạc chúng sanh cho nên các ngài nhiếp hoá trang nghiêm cõi nước giáo hoá chúng sanh như kệ nói: “Hoặc có các quốc độ không ngằn mé, an trụ liên hoa biển lớn sâu, rộng rãi thanh tịnh khác thế gian, chư Phật diệu thiện trang nghiêm đó, hoặc có quốc độ theo luân chuyển, do Phật oai thần được an trụ…” do giáo hoá chúng sanh mà Bồ Tát viên thành trí huệ Phật. Nếu tự giác, giác tha và hạnh giác ngộ chưa viên mãn thì không thể gọi là Phật. Tất cả Chư Phật đều có bổn nguyện giáo hoá chúng sanh mới viên mãn Pháp Thân chứng thành Phật đạo.
Trách nhiệm xây dựng Tịnh Độ tự tâm và nhân gian của mỗi người con Phật
Qua hình ảnh phát tâm Bồ Đề, lập ra 48 lời nguyện kiến tạo cõi An Lạc của ngài Pháp tạng, mật ý Đức Thế Tôn muốn những người con Phật có đại chí nguyện như hàng Bồ Tát kiến lập cảnh thanh tịnh trang nghiêm để dìu dắt người sơ môn tu học ngộ bản tâm có cuộc sống an lạc trong chánh pháp, hoàn thành đạo nghiệp Bồ Đề như chư Đại Bồ Tát và Chư Phật.
Người tu Tịnh Độ chỉ niệm Phật nguyện sanh An Lạc tránh Ta Bà, an vui vĩnh kiếp. Thế nhưng, khi rõ biết Phật là tâm, tâm sanh tất cả pháp y báo chánh báo tuỳ tâm hiện thì có thể tu Bồ Tát hạnh trang nghiêm Tịnh Độ cứu mê tình theo hai hướng:
Rộng khuyên quần chúng Phật tử tu hành đồng phát nguyện lớn, đồng hướng tâm thanh tịnh tu phước đức trí huệ để sanh về Cực Lạc.
Nếu rõ Ta Bà Cực Lạc không hai chuyển đổi chánh báo và y báo như kinh Hoa Nghiêm phẩm Thế Giới Thành Tựu nói: “Nếu có tâm thanh tịnh, tu những hạnh phước đức, tâm họ khiến quốc độ, tạp nhiễm thành thanh tịnh… Vô lượng số chúng sanh, đều phát Bồ đề tâm, tâm họ khiến quốc độ, trụ kiếp thường thanh tịnh”. Tất cả người tu Tịnh Độ nếu khéo lập nhân hạnh như Ngài Pháp Tạng thì mới có thể xiển dương được chánh giáo Đại Thừa trang nghiêm uế độ Ta Bà thành Cực Lạc.
Cổ đức bảo: “Cảnh giới Như Lai nếu muốn tầm nên tịnh ý mình như hư không, xa lìa vọng tưởng và chấp trước, hướng tâm đến chổ chẳng ngại ngăn”. Do nhất tâm thanh tịnh và Phật Lực gia bị, nên Pháp, Báu, Thân Đức Di Đà ảnh hiện, vô lượng ánh sáng chiếu khắp tất cả, chỗ này, An Lạc - Ta Bà đồng một pháp giới, vốn không có núi sông đất đai đông tây, nam bắc. Vì sao?
Núi sông đại địa đều do con mắt mê mờ của chúng sanh mà thành, nếu người thấu rõ cảnh giới Phật, thân tâm thanh tịnh ví hư không, ba đường sáu nẻo thảy đều lìa, thân tâm thảy đều không ngăn ngại. Khi tâm thanh tịnh thì thấy suốt cảnh Tây Phương An Lạc.
Chỗ này, Kinh Hoa Nghiêm nói: “Chư Phật như tấm gương sáng lớn, thân ta như hạt ngọc ma ni, Pháp thân chư Phật vào thân ta, thân ta thường vào thân chư Phật”, nên biết chúng sanh và Phật xưa nay vốn không hai, nên thấy Phật thật ra không có gì để thấy. Vì sao? Đồng một thể tánh chơn như, cho nên, khi thấy Phật chính là thấy bản tâm chứ không gì khác. Đây là thấy Pháp Thân Phật, với người có công huân phước báo, chưa ngộ được nguồn tâm thì khi tâm thanh tịnh báu thân Phật hiện, đủ tất cả diệu sắc trang nghiêm để họ tấn tu Phật đạo, đây là tuỳ duyên hiện pháp độ quần mê. Ánh sáng Bồ Tát Thanh văn đều ẩn khuất là chỉ cho trí huệ Phật thù thắng, bao khắp trí huệ Bồ Tát Duyên giác và Thanh văn. Pháp thân Vô Lượng Thọ Phật cao vời vợi khắp tất cả thế giới là chỉ thân Phật trùm khắp pháp giới, chánh y nhị báo thảy viên thành.
Trong cuộc sống xã hội văn minh ngày nay, khi vật chất văn minh xã hội lên cao, quần chúng mệt mỏi vì cuộc sống công nghiệp, mỗi người trụ Pháp Vương Gia giữ gìn tạng bí yếu của Như Lai tu Bồ Tát đạo dù ở bất cứ nơi nào, tu pháp môn làm sao tạo phương tiện xây dựng đạo tràng, đem chánh pháp vào lòng người, làm cho người người rõ được pháp tu, an trụ được pháp lạc vượt qua những bất an, bức xúc hay sóng gió của cuộc đời, làm sao nơi nào chúng ta đến chỗ đó đều là đạo tràng hay Tịnh Độ Chư Phật. Kính mong những bậc có hạnh nguyện Bồ Tát cùng nhau góp phần khuyên dạy mọi người làm cho họ nhận được bản tâm mình cùng Chư Phật không khác cùng nhau.
Tự tu tập để có thân thể khoẻ mạnh an vui trong chánh pháp đó là tự thân thường trụ Cực Lạc.
Khuyến hoá dạy người tu học chánh pháp để tự thân an lạc và cùng hướng dẫn bạn lữ, gia đình, đạo bạn tiến tu được an lạc trong chánh pháp như mình.
Hình thành những nơi an dưỡng đạo tràng đồng tu trong trang nghiêm thanh tịnh vượt qua mọi khổ não bất an của cuộc đời.
Khuyến tấn mọi người phát tâm lợi mình lợi người xây dựng xã hội, đạo đời song hành theo tinh thần kinh Vô Lượng Thọ.
Để xây dựng cõi Tịnh Độ Trang Nghiêm, ngài Pháp Tạng phải trải qua vô lượng kiếp hành Bồ Tát đạo, giáo hoá chúng sanh, những ai đó là người có tâm hạnh Bồ Tát thì nên phát thệ nguyện rộng lớn trang nghiêm Tịnh Độ, giáo hoá chúng sanh như ngài. Muốn thế, trước hết chúng ta phải tự trang nghiêm tâm mình, khi tâm thanh tịnh thì mới có thể xây dựng pháp giới thanh tịnh theo tinh thần Kinh Duy Ma là “Tuỳ tâm thanh tịnh mà cõi nươc thanh tịnh, muốn thanh tịnh cõi Phật nên thanh tịnh tâm mình”.
Qua hình ảnh Bồ Tát Pháp Tạng, Đức Thế Tôn muốn vạch rõ mật hạnh và nguyện lực của Bồ Tát cho người nào việc mình đã xong, nguyện làm lợi lạc tất cả hữu tình và vạn vật, chẳng riêng mình an trú Niết Bàn, noi theo mật hạnh Chư Phật lập nguyện tu Bồ Tát hạnh trang nghiêm Tịnh Độ hành đại hạnh Bồ Tát, sớm viên thành tự lợi và lợi tha khắp quần sanh như Chư Phật.
IX. KẾT LUẬN
Pháp hội Vô Lượng Thọ Như Lai được coi là bộ kinh nói về Viên Giáo Nhất Thừa, chỉ rõ tự tánh Di Đà ai ai cũng sẵn có, bày ra phương tiện dắt người mê về bảo sở. Chỉ do chúng ta không hiểu nguồn tâm thanh tịnh sẵn có của mình, vọng duyên theo huyễn cảnh mê lầm quá lâu xa, nên quên mất nẻo về, mãi theo huyễn nghiệp vọng bị luân hồi không thể thoát ly. Vì thế, Pháp Vương từ mẫn chỉ rõ nẻo xuất ly, bày ra vô biên phương tiện giúp người mê thoát khổ mê lầm.
Thế nhưng, người tu hành cần nhớ rõ Đức Phật nói hạnh nguyện Di Đà không phải chỉ để bảo chúng ta sanh về đó, mà Ngài muốn chỉ rõ chơn tâm thật tướng, cho ta y theo đó tu hành qua hình ảnh Bồ Tát Pháp Tạng. Ngài Quy Sơn nói: “Người kia là trượng phu ta cũng vậy, chớ nên tự khinh mình mà thối thất lợi lành”. Vậy bậc có chí nguyện cần cầu Phật đạo, hãy phát đại chí nguyện, lập hạnh Bồ Tát tu hành ngay trong kiếp này chớ bỏ lỡ cơ hội. Một ngày tấn tu tại Ta Bà bằng trăm năm ở An Lạc, cho nên Đức Phật và chư Bồ Tát hành đạo lấy khó khăn gian khổ làm thành tựu, lấy ma quân làm bạn lữ.
Trong cảnh khổ Ta Bà, tu được, hành đạo được là bậc đại trượng phu. Con đường chông gai gian khổ nhất bao giờ cũng là con đường vinh quang, thành tựu ngắn nhất. Ai có tâm kiên cố tu thì sẽ sớm viên thành. Trong ba kinh Tịnh Độ, chỉ có kinh này đi sâu về tự tánh, bày rõ bản nhân phát nguyện thuở ban sơ, chỉ rõ tự tánh Di Đà và ngầm khuyên người phát nguyện như Pháp Tạng Tỳ Kheo kiến tạo Tịnh Độ, làm lợi ích chúng sanh nối thành dòng thánh tế độ quần mê.
Đức Thế Tôn nói kinh này ngoài dụng ý dạy người vãng sanh còn nêu lên nhân hạnh Bồ Tát cho những ai có tâm nguyện Bồ Tát cõi Ta Bà y đây phát nguyện lập hạnh theo gương hạnh của ngài, nhưng ít người nhận được mật ý này. Do đó người tu Tịnh Độ ngoài quyết chí vãng sanh, cần có Bồ Đề tâm rộng lớn, nguyện thành tựu Tịnh Độ chơn tâm và phát đại nguyện tự trang nghiêm Tịnh Độ cứu mê tình như chư Bồ Tát mới thật sự là báo Phật thâm ân, xiển dương Tịnh Độ, lợi khắp muôn loài. Tám vạn bốn ngàn pháp môn có ra đều là phương tiện giúp người tu ngộ nhập bản tâm. Thế nhưng, trong tất cả pháp môn phương tiện đó, pháp môn Tịnh Độ được coi là phương tiện thiện xảo thù thắng nhất, tất cả căn cơ đều tu theo dễ dàng.
Pháp hội này được coi là then chốt tinh hoa căn bản Tịnh Độ vì nó giải rõ thắng nghĩa của tông này. Gồm thâu nghĩa lý nhiệm mầu của kinh hiện bày tất cả khía cạnh như Nhơn quả, Tín giải hạnh nguyện, khuyên răn sách tấn tu hành gồm thâu lý và sự tu chứng của đức Phật và con đường phải hành của người nay nên người xưa gọi là đại kinh. Qua kinh Vô Lượng Thọ, người tu hành theo kinh này cần phải hội đủ năm yếu tố:
- - Tin vào trí Phật
- - Tin mình có đủ thiện căn
- - Phát đại nguyện Bồ đề
- - Nhất tâm chuyên niệm cầu vãng sanh
- - Tu các công đức chí tâm hồi hướng
Pháp môn Tịnh Độ của Phật A Di Đà được các ngài Huệ Viễn Thiện Đạo Đạo Xước Vĩnh Minh Diên Thọ tuyên dương cho đến Ấn Quang Đại sư, Diễn Bồi Pháp Sư thảy đều tán thán. Các bậc Tôn Đức ở Việt Nam cũng hết lòng xiển dương. Đặc biệt, ngày nay phong trào Phật thất rộ lên theo lời bổn nguyện của Đức Di Đà, thật là điều đáng mừng vậy.
Trong Kinh Vô Lượng Thọ này, Phật ân cần khuyên bảo người tu hãy nguyện sanh Tịnh Độ chí thiết. Đặc biệt, với nguyện hai mươi hai Ngài nguyện chư Bồ Tát tại cỏi Cực Lạc đều là bực nhất sanh Bổ Xứ, trừ người có bổn nguyện riêng, hiện tiền tu công đức Phổ Hiền làm cho ta phải suy nghĩ, thấy rõ công đức vô lượng của thánh chúng Cực Lạc cùng Phật không kém khuyết.
Trong kinh Hoa nghiêm, Ngài Thiện Tài Đồng tử sau khi trải qua năm mươi hai vị thiện tri thức vào Đẳng giác Bồ Tát mới gặp Bồ Tát Phổ Hiền dạy tu Phổ Hiền nguyện hải. Tròn đủ công đức hạnh nguyện Phổ Hiền xong, ngài lại dạy thú hướng về cõi Cực Lạc. Như vậy, đứng trên phần sai biệt Cực Lạc là tối thắng, ai tu Bồ Tát về thì trọn đủ Hạnh Phật, kiếp tiếp sau sẽ là Phật hiện tiền.
Đứng trên lý tánh, Di Đà là pháp thân chơn thể. Quan Âm là Đại từ Đại bi, Đại Thế Chí là Đại Hùng Đại lực. Bồ Tát công viên quả mãn thì Đại từ Đại bi Đại Hùng Đại lực đều viên mãn, đó là vãng sanh Cực Lạc. Cho nên, Ứng thân thị hiện liền thành Phật Đạo. Vì muôn đức đã trọn đầy, khi về tới Cực Lạc là Bật nhất sanh Bổ Xứ, tức chỉ một đời giáng thế sẽ viên thành Phật quả như ngài Di Lạc. Hiện tại ở Ta Bà Kham Nhẫn khổ đau, cần tu thắng pháp là việc rất khó.
Thế nhưng, trong cảnh khó của Ta Bà lại là việc thù thắng. Như lời Đức Thích Ca dạy: Nếu tu đức lập hạnh chánh tâm chánh ý thọ trì trai giới hay bố thí cúng dường Trì Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn tu một ngày đêm ở Ta bà thắng hơn Cực Lạc trăm năm. Do đó, người muốn cầu sanh Tịnh Độ nên phát tâm tu các công đức tròn đủ thì quả thù thắng hiện tiền ngay trước mắt. Tuy nhiên chỉ trừ những người ác nghiệp quá đầy không thể dạy, còn người nguyện sanh Tịnh Độ ở Ta Bà trong hiện tại nên phát chí Bồ đề cần Vô Thượng Đạo để cách một đời liền thành Phật đạo. Tâm chí hạ liệt mà kính tin Phật đức, nhất tâm chuyên niệm cũng được thọ sanh, thân tướng quang minh như Bồ Tát nhưng nếu không đại chí cầu Bồ đề phải trải bảy ngày cho đến mười hai tiểu kiếp, hoa sen mới nở, chậm trễ chẳng tự tại cũng là mất lợi lành lớn. Dù thân tốt đẹp mà tâm chí Thanh văn thì phải nhất tâm huân tập đại thừa đến khi phát được thắng ý Bồ Đề hành Bồ Tát đạo mới viên thành đại quả. Nghe được điều này, nguyện chư thiện hữu cùng phát chí hướng thượng để được quả thù thắng.
Đứng trên pháp tướng, kinh này chỉ cho người tu phương tiện niệm Phật để hoàn thành Pháp Định điều thân của Thanh Văn trên chặn đường tu Bồ Tát đạo.
Đức Đại Thế Chí nói: “mười phương chư Phật hằng tưởng nhớ chúng sanh như mẹ hiền trông con dại”. Tin chắc lời Phật dạy, chỉ rõ cho quần chúng tu hành, dắt tất cả hữu tình về Tịnh Độ chơn tâm là mật hạnh mà mỗi người hoằng dương chánh pháp cõi Ta Bà theo Tịnh Độ nên lưu ý.
Kính mong sao các bậc trụ trì xây dựng Tịnh Độ chính ngay tại pháp giới này, hướng dẫn người người tiến tu thiện pháp, trang nghiêm bản tâm, làm sao mỗi ngôi chùa chính là pháp giới Tịnh Độ hiện tiền, dẫn dắt người người tu theo lời Phật dạy hạnh hạnh thú hướng Bồ đề, biến Ta Bà thành Cực Lạc hiện tiền, Đạo tràng tứ chúng đồng tu.
Mong sao tất cả người tu hành luôn hiện trú pháp lạc hiện tiền ngay cõi thế và làm an lạc mọi người theo mật hạnh của riêng mình. Nguyện cho tất cả quần sanh đều rõ biết Tịnh Độ Ta Bà không hai lý dung thông các pháp môn tu tập, xây dựng nhân sanh tốt đạo, đẹp đời đồng viên thành chủng trí Bồ đề, khiến cho Phật đăng mãi cửu trụ Ta Bà. Người mê thức tỉnh tâm an lạc, đồng nhau nhất niệm tu hành. Ta Bà Tịnh Độ hiện tiền ngay đây.
Bài viết cùng chủ đề:
- Giới thiệu tổng quát về hệ thống Luận tạng của Phật giáo Bắc truyền
- Lịch sử Phật Giáo Tây Tạng
- GHPGVN tổ chức Đại lễ kỷ niệm 35 năm ngày thành lập
- Lời khuyên giúp bạn tránh khỏi ung thư từ chuyên gia hàng đầu
- Đại lễ Vu Lan tại chùa Long Quang
- Đại lễ Vu Lan báo hiếu tại chùa Bảo Hải
- Thành ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban MTTQVN thành phố Bà Rịa, thăm Ban Trị Sự GHPGVN TP. Bà Rịa - Nhân 40 Năm GHPGVN thành lập
- Đoàn lãnh đạo TP.Bà Rịa thăm và chúc mừng Ban Trị sự, Tăng Ni và Phật tử TP nhân Đại lễ Phật đản 2022
- ĐĐ. Thích Hoằng Trí chia sẻ pháp thoại "Thiền Tịnh bất nhị" tại Hạ trường Chùa Long Quang
- CHÙA CHÁNH THIÊN-ĐẠI LỄ VU LAN-NGÀY 16-17. 7. GIÁP THÌN-2024
- ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN 2024-BAN TRỊ SỰ GHPGVN TP. BÀ RỊA
- Triển Khai Hiến Chương Giáo Hội - Hòa Thượng Thích Thiện Nhơn Chủ Tịch HĐTSTW
- Lễ khai mạc Đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc lần 7 (2012-2017)
- Đại lễ Khánh Thành Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại TP. Hồ Chí Minh
- Cuộc Đời và Đạo Nghiệp Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thanh Bích
- GHPGVN TP. Đà Nẵng Thiết trí Lễ đài Phật đản PL. 2560 - DL. 2016
- Diễu hành xe hoa Mừng Phật Đản PL.2562 - BTS GHPGVN tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu
- Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Minh Châu-Cuộc Đời & Đạo Nghiệp
- Phật Giáo Thành Phố Bà Rịa - Kính Mừng Lễ Phật Đản PL: 2562 - DL: 2018
- ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN VESAK BAN TRI SỰ PHẬT GIÁO TP-BÀ RỊA -PL:2563- DL:2019 ngày 13/4/Kỷ Hợi (17/5/2019)
- CHỮ TÂM TRONG ĐẠO PHẬT-TT.THÍCH TRÍ
- Ban Từ thiện xã hội PG TP.Bà Rịa tổ chức Phiên chợ 0 đồng trước thềm xuân Giáp Thìn
- LỊCH SINH HOẠT TRƯỜNG HẠ PL.2567 - DL.2023
- Ban Trị sự GHPGVN TP.Bà Rịa tham dự Hội nghị Tổng kết phong trào thi đua năm 2022
- TP.BÀ RỊA BẾ GIẢNG KHÓA AN CƯ PL.2566
- TP. Bà Rịa: Buffet chay gây quỹ ủng hộ Đại hội PG tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu
- Thượng toạ Thích Kiến Tánh sinh hoạt Đại cương các bộ luật Phật giáo tại Hạ trường Chùa Long Quang
- Ni trưởng Thích Nữ Thuần Trí với chủ đề Mục đích và ý nghĩa cuộc sống tại Hạ trường Chùa Bảo Hải
- NS. Thích Nữ Linh Viên giảng Tín Tâm Minh (tiếp theo) tại Hạ trường Chùa Bảo Hải
- NT. Thích Nữ Như Từ quang lâm thăm hỏi Hạ trường Ni Chùa Bảo Hải
- ĐĐ. Thích Hoằng Trí chia sẻ pháp thoại "Thiền Tịnh bất nhị" tại Hạ trường Chùa Long Quang
- TT. Thích Thiện Thuận với pháp thoại chủ đề Tỳ-ni trong đời sống Tăng sĩ tại Hạ trường Chùa Long Quang
- HT. Thích Giác Hạnh giảng Tứ tất đàn tại Hạ trường Chùa Long Quang